Văn hóa Việt Nam sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế
Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
Bên cạnh ưu điểm, thành tựu to lớn, quan trọng đã nêu, công tác lãnh đạo, quản lý và thực hành văn hóa của ta cũng bộc lộ những hạn chế, yếu kém. Công tác tư tưởng, văn hoá nhìn chung còn thiếu sắc bén, thiếu tính chiến đấu. Việc xây dựng thể chế văn hoá còn chậm, sự suy thoái về đạo đức, lối sống có chiều hướng gia tăng. Đời sống văn hoá, văn nghệ còn nhiều bất cập. Rất ít tác phẩm văn nghệ đạt đỉnh cao tương xứng với tầm vóc sự nghiệp cách mạng và kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Đường lối xây dựng, phát triển văn hoá giai đoạn 1955 - 1986 bị chi phối bởi tư duy chính trị "nắm vững chuyên chính vô sản" mà thực chất là nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, đấu tranh "ai thắng ai" giữa hai con đường, đấu tranh hai phe, đấu tranh ý thức hệ. Mục tiêu, nội dung cuộc cách mạng tư tưởng, văn hoá giai đoạn này cũng bị quy định bởi cuộc cách mạng quan hệ sản xuất mà tư tưởng chỉ đạo là triệt để xoá bỏ tư hữu, xoá bỏ bóc lột càng nhanh càng tốt, là đưa quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đi trước một bước, tách rời trình độ phát triển thực tế của lực lượng sản xuất. Chiến tranh cùng với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp và tâm lý bình quân chủ nghĩa đã làm giảm động lực phát triển văn hoá, giáo dục; kìm hãm năng lực tự do sáng tạo của văn nghệ sỹ và rộng ra là kìm hãm sự phát triển của đất nước.
1. Công cuộc đổi mới đất nước tạo động lực và nguồn cảm hứng để đổi mới văn hóa
1.1. Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được tiến hành trong tháng 12 năm 1986. Đại hội khẳng định: “Quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học”, Đại hội nêu lên bốn bài học kinh nghiệm có ý nghĩa hết sức quan trọng: “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động; phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan; kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại; xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1994, lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, được Đảng quan tâm sâu sắc và toàn diện hơn. Năm 1991, trước những bước phát triển mới của sự nghiệp cách mạng, để thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội lần thứ VII (6/1991) xác định nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trong đó đặc trưng thứ ba là có “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, đặc trưng thứ tư là “con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”.
Như vậy, ở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới, nhận thức về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một nhiệm vụ trọng yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được khẳng định. Tiếp đó, quan điểm xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục được bổ sung, phát triển đầy đủ và phong phú hơn trong các văn kiện của Đảng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt, lần đầu đưa khái niệm: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội" . Nghị quyết khẳng định: "Nền văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" .
1.2. Nghị quyết Trung ương 5 - NQ/TW khóa VIII và các nghị quyết của Đảng về văn hóa
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) ra Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội" . Đây không chỉ là một văn kiện mang tính đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, mà còn thể hiện tư duy lý luận văn hóa một cách toàn diện và sâu sắc trong giai đoạn cách mạng mới.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, Đại hội IX của Đảng yêu cầu “Mở rộng và nâng cao hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”…, làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng con người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam… Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân”. Để thúc đẩy sự phát triển của văn học, nghệ thuật, Bộ Chính trị đã bàn và ra Nghị quyết số 23 NQ/TW, ngày 16 tháng 6 năm 2008 về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”. Nghị quyết nêu quan điểm “Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hoá; là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam. Văn học, nghệ thuật Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế phải phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ. Phấn đấu sáng tác nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, có tác dụng to lớn xây dựng con người; vừa có tác dụng định hướng, vừa đáp ứng nhu cầu văn hoá - tinh thần ngày càng cao của nhân dân. Tài năng văn học, nghệ thuật và vốn quý của dân tộc. Chăm lo phát hiện, bồi dưỡng, quý trọng và phát huy các tài năng văn học, nghệ thuật là trách nhiệm của toàn xã hội, trước hết là của Đảng, Nhà nước và của các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp. Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do sáng tạo, tạo điều kiện thuận lợi phát huy tính độc lập, khơi dậy mọi nguồn lực sáng tạo của văn nghệ sĩ”.
Đại hội lần thứ X của Đảng (4.2006) khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”. Nghị quyết đã thể hiện quan điểm lớn quán xuyến toàn bộ tư duy, nhận thức mới của Đảng về văn hoá thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) với 5 quan điểm, 10 nhiệm vụ, 4 giải pháp. Tinh thần cơ bản của Nghị quyết TW 5 (khoá VIII) tiếp tục được khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X và XI của Đảng, đặc biệt, được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung năm 2011): “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”. Trong định hướng phát triển, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
1.3. Nghị quyết Trung ương 9, khóa XI (Nghị quyết 33-NQ/TW) và các nghị quyết của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa của đất nước ta đã có chuyển biến tích cực và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, trước những biến đổi nhanh chóng, đa dạng, phức tạp của đời sống trong nền kinh tế thị trường và bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, hoạt động văn hóa cũng bộc lộ không ít bất cập, hạn chế, yếu kém; phương thức lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước chậm được đổi mới; chúng ta chưa lường hết tính phức tạp và những tác động của mặt trái kinh tế thị trường đối với đời sống văn hóa. Tuy xác định “Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội” nhưng trên thực tế, trong suy nghĩ, hành động, không ít tổ chức, cá nhân còn quá thiên lệch về kinh tế, coi nhẹ văn hóa. Văn hóa vô hình trung bị thu hẹp phạm vi và bị “hành chính hóa”, không còn là một phạm trù tổng thể các giá trị vật chất, tinh thần.
Xuất phát từ thực tiễn đất nước sau gần 30 năm đổi mới và phát triển, Hội nghị lần thứ chín, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã thảo luận và ra nghị quyết (Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9.6.2014) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước”. Bằng Nghị quyết Trung ương 9, sự phát triển tư duy lý luận của Đảng, sự sáng tạo của Đảng trong việc nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa, đặc biệt là yếu tố con người; việc xác định phương hướng, đặc trưng, tính chất, động lực và đặc thù của hoạt động xây dựng và phát triển văn hóa, con người.
2. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Kết luận số 76-KL/TW, ngày 4.6.2020 của Bộ Chính trị
2.1. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân, thiện, mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học…Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”.
Tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong thời gian tới là: (1) “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nội dung quan trọng nổi bật ở đây là: xây dựng, phát triển nền văn hóa phải gắn chặt với xây dựng, phát triển con người, không tách khỏi cội nguồn dân tộc. Văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội, mà còn là là sức mạnh nội sinh trực tiếp để phát triển bền vững. Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Chăm lo văn hoá là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Mặt khác, xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá và con người; văn hoá phát triển là kết quả của sự phát triển kinh tế, đồng thời tạo động lực cho kinh tế ngày càng phát triển. Không những thế, văn hoá còn phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện: chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật, đạo đức,…để trở thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển. (2) Thống nhất nhận thức về mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam. Mục tiêu trước mắt là gắn kết giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa; làm cho văn hóa tham gia tích cực vào thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Xây dựng những giá trị văn hóa mới đi đôi với việc mở rộng giao lưu quốc tế. Nâng cao mức hưởng thụ, tham gia hoạt động, sáng tạo văn hóa của nhân dân; từng bước thu hẹp sự chênh lệch về hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Tăng cường đầu tư của Nhà nước, nâng cao tỷ lệ ngân sách cho văn hóa, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa, huy động mọi nguồn lực cho phát triển văn hóa; coi đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho con người, đầu tư cho phát triển bền vững. Xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, chú trọng các công trình văn hóa lớn, tiêu biểu; nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các thiết chế văn hóa cơ sở, v.v. Mục tiêu lâu dài là, tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng môi trường, lối sống văn hóa; phát huy tinh thần tự nguyện, tự chủ, sức sáng tạo, vai trò chủ thể văn hóa của nhân dân; xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam. Đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, bảo đảm tính thống nhất trong đa dạng về bản sắc văn hóa độc đáo của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Phát huy tiềm năng, khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, sáng tác những tác phẩm văn học, nghệ thuật tiêu biểu phản ánh sức sống của nền văn hóa mới. (3) Quán triệt, thực hiện tốt nhiệm vụ, giải pháp phát triển văn hóa. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Bản sắc văn hoá dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo; giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán. Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu là xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối sống; xây dựng văn hóa trong chính trị, kinh tế; làm tốt công tác lãnh đạo, quản lý báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ; phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường dịch vụ và sản phẩm văn hóa; chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa; đầu tư của Nhà nước cho văn hóa phải tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế. Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến tặng cho phát triển văn hóa, v.v. (4) Tích cực đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái thù địch trên lĩnh vực văn hóa. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng, nhất là trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản,… đấu tranh với quan điểm sai trái và mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch lợi dụng văn hóa để chống Đảng, Nhà nước và chế độ ta [1].
2.2. Kết luận số 76-KL/TW, ngày 4.6.2020 của Bộ Chính trị, khóa XII
Kết luận số 76-KL/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Bộ Chính trị ghi nhận, biểu dương những nỗ lực và kết quả sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW; chỉ ra những hạn chế, yếu kém, bất cập; xác định các nội dung, định hướng lớn “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Kết luận nhấn mạnh việc “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước…Đẩy nhanh việc cụ thể hóa chủ trương, quan điểm của Đảng thành chương trình, đề án cụ thể, sát thực tiễn…Tăng cường các nguồn lực cho phát triển văn hóa, tương xứng với tăng trưởng kinh tế….Tập trung xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện…Đẩy mạnh xây dựng môi trường và đời sống văn hóa lành mạnh, gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”…Tăng cường xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế. Tiếp tục chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Coi trong xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước. Đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”…Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và truyền bá văn hóa Việt Nam ra thế giới”.
PGS.TS NGUYỄN THẾ KỶ