Phát huy sức mạnh mềm văn hóa dân tộc trong bối cảnh hiện nay
TS.NGUYỄN HUY PHÒNG
Tuy nhiên, 10 năm qua, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội thế giới và khu vực có nhiều biến động, thay đổi nhanh chóng, bên cạnh những điều kiện thuận lợi về hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng nhau phát triển thì những mối nguy cơ từ xung đột, chạy đua vũ trang, chiến tranh tâm lý, cuộc chiến thương mại, chiến tranh mạng, vấn đề xung đột sắc tộc, tôn giáo, nạn khủng bố, đại dịch toàn cầu… đặt ra nhiều vấn đề mới đòi hỏi các quốc gia, dân tộc phải xây dựng kế hoạch, kịch bản chi tiết để ứng phó, thích ứng, trong đó có những kế sách, chiến lược về phát triển văn hóa.
1. Văn hóa là lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm, tinh tế, thẩm thấu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặc dù văn hóa có quy luật vận động riêng nhưng luôn chịu sự tác động, chi phối của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội. Vì thế những biến động, đổi thay theo chiều hướng tích cực và tiêu cực của tình hình trong và ngoài nước đều tác động trực tiếp và gián tiếp đến sự phát triển của văn hóa. Việc Bộ VHTTDL nghiên cứu, xây dựng Dự thảo Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030 có ý nghĩa quan trọng, thể hiện sự tiếp nối liên tục trong tư duy phát triển văn hóa của Đảng, Nhà nước; kế thừa, phát huy những thành quả đã đạt được, đồng thời đề ra quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ mới với những giải pháp khả thi để văn hóa phát triển đúng hướng, có nhiều đóng góp quan trọng vào quá trình xây dựng, hình thành nhân cách con người mới - con người xã hội chủ nghĩa để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Điểm khác biệt trong Dự thảo Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030 so với Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 thể hiện ở kết cấu và dung lượng có sự giản lược, ngắn gọn, tập trung vào những mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm (với 3 mục lớn: Quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp). Trong khi đó Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 giới hạn ở 4 lĩnh vực trọng tâm của văn hóa, gồm: Tư tưởng, đạo đức, lối sống, đời sống văn hoá; Di sản văn hoá; Văn học, nghệ thuật; Giao lưu văn hoá với thế giới; Thể chế và thiết chế văn hoá. Sau đó Chiến lược đi sâu đánh giá, nhìn nhận về: 1.Thực trạng văn hoá nước ta hiện nay (những thành tựu, những yếu kém và nguyên nhân chủ yếu); 2. Bối cảnh, cơ hội và thách thức đối với sự phát triển văn hoá nước ta (Bối cảnh quốc tế, Bối cảnh trong nước, Cơ hội và thách thức); 3. Quan điểm, mục tiêu và nhiệm vụ phát triển văn hoá đến năm 2020 (Quan điểm xây dựng và phát triển văn hoá, Mục tiêu phát triển văn hoá đến năm 2020, Nhiệm vụ trọng tâm, Định hướng phát triển các chuyên ngành văn hoá, nghệ thuật); 4. Các giải pháp chủ yếu; 5. Tổ chức thực hiện chiến lược.
Như vậy so sánh về mặt kết cấu, dung lượng thì Chiến lược ban hành năm 2009 đã phác thảo, nhận diện rõ nét những thành quả và cả những hạn chế, yếu kém trong công tác phát triển văn hóa những năm qua, nhất là từ khi Đảng ban hành Nghị quyết về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII - 1998); dự báo tình hình trong và ngoài nước với những cơ hội, thách thức, từ đó đề ra quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, tổ chức thực hiện. Điều này giúp các cơ quan chức năng và mỗi người dân nhận thức sâu sắc về tình hình phát triển văn hóa và những công việc cần phải làm để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực, nguồn lực nội sinh quan trọng trong quá trình phát triển bền vững đất nước.
2. Điểm nổi bật trong Dự thảo Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030 là sự tiếp nối, truyền tải đầy đủ những tư tưởng, quan điểm của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa, đặc biệt là sự kế thừa những quan điểm chỉ đạo được thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (1998), Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (2014), Kết luận 76-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của BCH Trung ương Đảng khóa XI về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (2020), đồng thời tích hợp, lồng ghép tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII (2021) về khát vọng phát triển, tinh thần cống hiến, phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, nguồn lực quan trọng, cùng với các nguồn lực khác xây dựng thành công nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc. Đồng thời trước xu hướng phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Dự thảo Chiến lược cũng đã đề ra các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng, hình thành văn hóa số, đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh. Tuy nhiên trong phần III: Nhiệm vụ và giải pháp, Dự thảo Chiến lược chưa phân tách rõ đâu là nhiệm vụ, đâu là giải pháp, riêng nhiệm vụ, giải pháp thứ 12, Dự thảo viết: “Giải pháp tài chính”, so với tên gọi 11 mục trước thì không tương thích.
Du khách tham quan thác Bản Giốc
3. Văn hóa gắn liền với quá trình sáng tạo của cá nhân và cộng đồng nhằm hướng đến những giá trị tốt đẹp của chân, thiện, mĩ. Để có thể hoàn thành được các mục tiêu đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trở thành nước phát triển, thu nhập cao như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đề ra, bên cạnh việc tận dụng, tiếp thu nguồn lực ngoại sinh (từ sự giúp đỡ, hỗ trợ, chuyển giao thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ của các nước tiên tiến…) thì việc phát huy nguồn lực nội sinh (tiềm năng văn hóa, sức sáng tạo của con người) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Việt Nam có nhiều lợi thế để phát huy mạnh mẽ nguồn vốn văn hóa dân tộc với trữ lượng nguồn tài nguyên văn hóa dồi dào. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, các thế hệ người Việt không ngừng sáng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần, kí thác và thể hiện sinh động qua hệ thống di sản văn hóa vật thể (biểu hiện qua những công trình kiến trúc độc đáo, mang đậm dấu ấn, phong cách, mỹ thuật phương Đông; qua nghệ thuật chế tác công cụ lao động, qua hệ thống lâu đài, thành quách…) và di sản văn hóa phi vật thể (biểu hiện qua nghệ thuật ẩm thực, trang phục, nghề thủ công truyền thống, nghi lễ, lễ hội, diễn xướng dân gian, các loại hình nghệ thuật, ngôn ngữ…).
4. Bên cạnh nhiều di sản văn hóa độc đáo được UNESCO vinh danh, suốt dọc dài đất nước còn có nhiều thắng cảnh đẹp thuộc nhiều loại hình thiên nhiên đồi núi, trung du, đồng bằng, biển đảo, cùng với đó là những nét đặc sắc trong phong tục tập quán của 54 dân tộc anh em. Đây là nguồn tài nguyên văn hóa vô giá, chứa đựng những giá trị tốt đẹp (lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, đức hy sinh, khát vọng hòa bình…), tạo điểm tựa tinh thần, giúp mỗi người vượt qua khó khăn, trở ngại và không ngừng nỗ lực, vươn lên. Trong điều kiện hiện nay khi trữ lượng nguồn tài nguyên, khoáng sản ngày càng cạn kiệt, việc phát huy nguồn lực di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch, dịch vụ đang tạo ra những giá trị kinh tế, gia tăng nguồn thu ngân sách, giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động.
Mặt khác, người Việt Nam được đánh giá là thông minh, hiếu học, có đức tính cần cù, chịu khó, giàu ý tưởng, có khát vọng vươn lên. Hiện cơ cấu dân số nước ta đang ở giai đoạn “dân số vàng” với sức nghĩ, sức sáng tạo lớn của thế hệ trẻ về mọi lĩnh vực, trong đó có những sáng tạo về văn hóa, nghệ thuật, cộng với sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm phát triển công nghiệp văn hóa của các nước tiên tiến, hứa hẹn sẽ tạo ra thị trường văn hóa sôi động, lành mạnh với những sản phẩm văn hóa có giá trị, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng văn hóa mọi tầng lớp nhân dân. Đồng thời qua các kênh truyền thông, qua chiến lược phát triển văn hóa đối ngoại, nhiều sản phẩm văn hóa dân tộc có thể xuất khẩu, quảng bá ra thế giới, từ đó gia tăng vị thế, uy tín, hình ảnh của quốc gia, dân tộc với bạn bè năm châu.
5. Khai thác, phát huy mạnh mẽ sức mạnh mềm văn hóa đang là xu hướng phát triển, là con đường, lựa chọn của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Việc nhận diện, khai thác có hiệu quả nguồn vốn văn hóa dân tộc kết hợp với khoa học kỹ thuật hiện đại sẽ hình thành ngành công nghiệp văn hóa (hay còn gọi là công nghiệp sáng tạo, công nghiệp bản quyền, trí tuệ, công nghiệp giải trí). Để đẩy nhanh tốc độ phát triển của ngành công nghiệp văn hóa, các cấp các ngành cần nghiên cứu, xây dựng, hình thành thị trường văn hóa đồng bộ, hiện đại, đầy đủ theo hướng lành mạnh, nhân văn, vì sự phát triển của con người và nền văn hóa dân tộc. Việc gia tăng quyền lực mềm văn hóa sẽ góp phần bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, đồng thời ngăn chặn những xuất bản phẩm, những hành vi, hiện tượng phản văn hóa, phản giá trị, ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia dân tộc và sự phát triển, hoàn thiện nhân cách con người, nhất là với thế hệ trẻ.
Phát triển văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hiện nay đứng trước nhiều vận hội lớn nhưng đồng thời cũng đối diện với không ít nguy cơ, thách thức. Phát huy sức mạnh mềm văn hóa dân tộc cần được nhấn mạnh trong Dự thảo Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 để vừa bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc, sức mạnh con người Việt Nam, đồng thời không ngừng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, tạo sức mạnh nội sinh để cùng các nguồn lực khác góp phần hiện thực hóa khát vọng xây dựng nước Việt Nam hùng cường.
Khai thác, phát huy mạnh mẽ sức mạnh mềm văn hóa đang là xu hướng phát triển, là con đường, lựa chọn của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Việc nhận diện, khai thác có hiệu quả nguồn vốn văn hóa dân tộc kết hợp với khoa học kỹ thuật hiện đại sẽ hình thành ngành công nghiệp văn hóa, hay còn gọi là công nghiệp sáng tạo, công nghiệp bản quyền, trí tuệ, công nghiệp giải trí. |
TS.NGUYỄN HUY PHÒNG (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh)